Đông y chữa ho từng cơn
19 tháng 02 năm 2022Julie Nguyen
Thông phổi: Không khí phải vào tới hai buồng phổi và ra khỏi buồng phổi theo một nhịp độ đều đặn. Nhờ đó hơi trong các phế nang được tiếp tục thay đổi, từ cũ sang mới, từ dơ bẩn sang thanh sạch. Tiến trình này được gọi là thở.
Hô hấp ngoài: Không khí chuyển đổi liên tục qua hình thái dung nạp oxygen và thải bỏ carbon dioxide giữ máu trong phổi và phế nang phải được thay chỗ cho nhau không ngừng.
Chuyển tải khí hô hấp: Oxygen và carbon dioxide phải được chuyển vận tới phổi và các mô tế bào của cơ thể, hoặc từ phổi ra để diễn tiến bên trong dòng máu, tuy âm thầm nhưng không bao giờ chểnh mảng.
Hô hấp trong: Là hình thái hấp thụ qua mao mạch. Khí trao đổi phải được thực hiện giữa máu và tế bào.
Đây là bốn giai đoạn mới hội đủ cho quy trình thay đổi khí trong phổi. Chúng ta cần phải biết hơi thở chia làm hai chu kỳ, hít vào là giai đoạn khí vào phổi và thở ra là giai đoạn khí rời khỏi phổi. Áp suất hơi thở được coi là bình thường khi nào thời lượng giữa hít vào và thở ra đều nhịp, khoan hòa, không gấp hoặc dồn dập.
Nếu vì một lý do nào đó có tác động làm phổi bị sốc, sẽ xảy ra hiện tượng xẹp phổi, hoặc chứng giảm oxy không khí vào. Đây là hiện tượng do phân phối oxy đến phổi và cơ thể không được cân bằng. Hypoxia có khả năng dẫn tới bệnh thiếu máu, bệnh đau phổi. Ngoài ra chứng thở sâu nhanh, cũng là một hệ quả khác do lượng oxy trong máu không đầy đủ, dung tích carbon dioxide nhiều hơn oxygen.
Điều quan tâm là bộ phận hô hấp dễ bị tổn thương, bởi vì hằng ngày nó tiếp xúc với vô số vi sinh vật, vi khuẩn hay vi trùng từ ngoài xâm nhập vào. Ngoài ra ngày nay các nhà nghiên cứu lên tiếng báo động thuốc lá triệt thoái buồng phổi khủng khiếp hơn bất kỳ chất độc hại nào khác.
Bất kỳ một sự hoạt động bất thường nào đều gây tổn thương cho phổi và gây ra ho.
Dưới cái nhìn của Y Khoa Đông Phương gan hỏa phạm phế cũng là một trong những nguyên nhân gây ra mất quân bình của phổi mà gây ra ho từng cơn.
Ho do gan hỏa phạm phế gây ho từng cơn
Khi gan hỏa phạm phế sẽ có những triệu chứng ngực và giang sườn đau, ho có đờm và ít máu, hay toàn máu, bực bội, dễ giận, đại tiện bón, nước tiểu đậm. Lưỡi đỏ và rêu lưỡi mịn và vàng. Mạch huyền và sác.
Chủ trị: Tả gan hỏa, tiêu đởm và nhuận phế.
Bài thuốc:
-Long đởm thảo 9 gram
-Mạch môn đông 9 gram
-Thiên môn đông 9 gram
-Tang bạch bì 9 gram
-Bán hạ chế 6 gram
-Trần bì 6 gram
-Cát cành 6 gram
-Tì bà diệp 9 gram
-Bách bộ 6 gram
-Thạch cao 9 gram
-Cam thảo 3 gram
Nhiệm vụ các vị thuốc:
-Long đởm thảo: Tả gan hỏa.
-Mạch môn đông, thiên môn đông, tang bạch bì, bán hạ, bách bộ, cát cánh, tì bà diệp: Tiêu đờm, nhuận phế, giảm ho.
-Thạch cao: Thanh phế.
-Trần bì, cam thảo: Bổ khí, thông khí và phối hợp các vị thuốc.
Thận khí suy làm phế khí suy gây khó thở và ho
Phế còn thông điều thủy đạo, và túc giáng: Nếu phế mất khả năng túc giáng sự thay đổi cũ mới của thủy dịch sẽ gây ra trở ngại, thì thủy dịch sẽ dồn lại, tiểu tiện sẽ không thông, lâu ngày sẽ sinh ra phù thũng.
Phế chủ về khí, cho nên lỗ chân lông cũng gọi là “khí môn.” Người bệnh phế khí hư có thể gây ra khó thở, suyễn và da lông cũng thường bị hư yếu, hay ra mồ hôi còn dễ bị cảm khi thời tiết đổi từ nóng sang lạnh, hay đổi từ Thu sang Đông là như vậy.
Một khi thận dương suy, ảnh hưởng tới phế khí suy gây ra thận bất nạp khí. Bệnh nhân thở hụt hơi, có nghĩa hít vào ngắn hơn thở ra, suyễn, đau phần dưới lưng, sợ lạnh, sắc mặt đen sậm, tinh thần mệt mỏi, hay sợ sệt. Để chữa bệnh này phải dùng bài “Bát Vị Địa Hoàng Thang.”
Gia:
-Hoàng kỳ 9 gram, bạch truật 9 gram, phục linh 9 gram, ngũ vị tử 9 gram: Bổ phế khí và tỳ khí.
-Tử tô tử 9 gram, mạch môn đông 9 gram, bán hạ 9 gram: Giáng phế khí, bổ phế, tiêu đàm và ngưng ho.
-Ích trí nhân 9 gram: Bổ thận và tỳ khí.
Bài thuốc này giúp cho thận và phế ấm lại, người bệnh cảm thấy phấn chấn ra, hết ho, hết sợ lạnh, sợ gió, hơi thở trở lại bình thường, bớt đi tiểu nhiều lần và nhất là khi ho nước tiểu không bị nhỉ ra nhất là đối với phụ nữ. Lý do thận khí suy là cơ vòng bị nhão ra không đàn hồi theo như ý mình muốn, vì vậy phải bổ thận khí.
Thận âm suy làm phế âm suy gây khó thở và ho
Theo Đông Y, dương phải giáng xuống chân và âm phải thăng lên trên đầu, có nghĩa là phần trên mặt chúng ta cảm thấy mát và phần dưới cảm thấy ấm thì vô bệnh.
Vì thận âm suy, theo ngũ hành, thận thuộc hành thủy và phế thuộc hành kim. Cũng theo ngũ hành phế là mẹ của thận. Thận âm suy làm phế suy theo, về chiều cảm thấy mỏi mệt hơn buổi sáng, càng về đêm hư hỏa càng gia tăng, làm phế nóng và khô gây ra khó thở và ho.
Những người mắc bệnh ho đã lâu mà ít đàm, nhất định không thể quy trách do “tỳ thấp sinh đàm” mà chính vì thận âm gây hỏa bốc lên mà thành đàm vàng và có khi ho từng cơn, làm tức ngực khó thở hay thở hụt hơi, miệng khô, ngủ không ngon, tiểu đêm nhiều lần, da khô, chân lạnh. Mạch phù sác hay vi sác. Lưỡi khô, đỏ và không rêu lưỡi.
Bài thuốc:
-Sơn thù du 9 gram
-Mẫu đơn bì 9 gram
-Phục linh 9 gram
-Trạch tả 9 gram
-Hoài sơn 9 gram
-Thục địa 18 gram
Nhiệm vụ các vị thuốc:
-Thục địa: Bổ thận và gia tăng lượng huyết, giảm đau.
-Sơn thù du: Làm ấm gan và giúp tăng cường sức mạnh cho thận.
-Mẫu đơn bì: Giúp thanh nhiệt và giảm huyết nóng.
-Sơn dược: Nuôi tỳ và tăng cường thận.
-Phục linh: Gia tăng tiểu tiện, giảm sưng, giảm thấp nhiệt trong tỳ.
-Trạch tả: Vừa giúp lợi tiểu, giảm ù tai, mắt bớt khô và mờ.
Mục đích của bài này bổ thận âm, phế âm, thanh nhiệt và giúp cho thận nạp được phế khí, giải quyết được hụt hơi và ho.
Gia:
-Mạch môn đông 9 gram, thiên môn đông 9 gram, tì bà diệp 9 gram, bán hạ 9 gram: Bổ phế âm và tiêu đàm.
-Quế bì 6 gram: Dẫn hỏa qui nguyên giúp chân ấm và phần trên cơ thể mát, trong đó có phế, và giảm ho.
-Nếu đầy hơi có thể thêm chỉ thực 9 gram, hương phụ 9 gram, đại phúc bì 9 gram. [qd]